Nhìn lại lịch sử dân tộc ta từ giữa thế kỷ XIX đến nay thì độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ không chỉ là nguyện vọng của cả dân tộc, mà còn là thành quả của các cuộc đấu tranh với không biết bao nhiêu hy sinh gian khổ của nhiều thế hệ người Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) và lãnh đạo sự nghiệp đó mới đưa đến thắng lợi trọn vẹn.
Năm 1946, trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Nhân dân Việt Nam “kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”(1).
Thực tế cho thấy, sở dĩ dân tộc ta giành được những thành quả lớn lao trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược cũng như trong hòa bình xây dựng đất nước, một mặt vì nhân dân ta giàu lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh tính mạng và của cải của mình, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ; mặt khác còn nhờ ở vai trò dẫn dắt của Đảng Cộng sản Việt Nam với phẩm chất chính trị và bản lĩnh lãnh đạo thể hiện ở đường lối, chính sách, ở chiến lược và sách lược trong suốt chiều dài lịch sử gần ¾ thế kỷ (1930-2014). Phẩm chất chính trị và bản lĩnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là luôn luôn đặt lợi ích dân tộc, gắn với chế độ chính trị do nhân dân làm chủ lên trên hết.
Hệ tư tưởng của Đảng mà tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhân tố tạo thành cũng lấy “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ”(2) là mục tiêu. Tất nhiên, tư duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không ngừng được vận dụng và mài sắc thông qua thực tiễn chính trị. Chẳng hạn như lập trường kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ bằng phương pháp hòa bình theo Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế trong sự kiện “nóng” vừa qua ở Biển Đông là một ví dụ.
Gần 40 năm qua, từ sau khi nước nhà được hoàn toàn giải phóng cho đến nay (1975-2014), Việt Nam luôn luôn đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (từ 20 đến 25-1-1994) đã xác định các nguy cơ đó là: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch”. Đại hội XI năm 2011 đã đề cập tới các nguy cơ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay với một cách nhìn nhận mới, gắn nguy cơ “diễn biến hòa bình” với nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Văn kiện Đại hội XI viết: “Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các con bài “dân chủ”, “nhân quyền”, hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”(3).
Theo cách hiểu thông thường, “diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và tay sai nhằm lật đổ chế độ chính trị đối với các nước xã hội chủ nghĩa bằng biện pháp phi quân sự. Đối với Việt Nam, âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đã có những thay đổi lớn, không còn theo nguyên nghĩa-chỉ là những tác động về tư tưởng, lý luận như phê phán mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tuyên truyền các giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây… Ngày nay, chiến lược đó đã chuyển sang kết hợp tác động về tư tưởng, lý luận với tiến công về chính trị-công kích trực tiếp vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh; thành quả cách mạng, thể chế quốc gia… Ngày nay, chiến lược này không dừng lại ở lĩnh vực tư tưởng, chính trị, “bất bạo động” mà còn đẩy tới kích động tâm lý dân tộc hẹp hòi, tư tưởng cực đoan không loại trừ gây rối, bạo loạn xã hội, nhất là khi các thế lực trong nước được các lực lượng cực hữu phương Tây trợ giúp. Hai sự kiện gây rối ở Tây Nguyên năm 2001 và 2004 là những ví dụ cụ thể.
Sau sự kiện “nóng” ở Biển Đông vừa qua, trên một số trang mạng người ta cho rằng, Việt Nam thiếu nhất quán trong đường lối bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, rằng không nên “hô hoán” chống “diễn biến hòa bình” nếu muốn tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia phương Tây, lực lượng duy nhất có thể giúp Việt Nam bảo vệ được sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo. Họ nói: “Không thể tay ga, tay thắng, vừa giương cao ngọn cờ “lòng tin chiến lược”, vừa hô hoán chống “diễn biến hòa bình”. Vậy mối quan hệ giữa phòng, chống "diễn biến hòa bình" với bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ như thế nào?
Trước hết, phòng, chống “diễn biến hòa bình” nhằm bảo vệ chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Không phủ nhận rằng, sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong nhiều thập kỷ qua do nhiều nguyên nhân, đã từng bị nhiều thế lực xâm lấn. Song lịch sử thế kỷ XX đã chứng minh không có bất cứ một lực lượng nào có đủ sự tin cậy về chính trị, có bản lĩnh vững vàng để lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc như Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế đã chứng tỏ rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, là người đề ra đường lối đối nội, đối ngoại, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, không phân biệt chế độ xã hội đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Bởi vậy, bảo vệ chế độ chính trị hiện hữu, bảo vệ hệ thống chính trị xã hội cũng có nghĩa bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thứ hai, phòng, chống “diễn biến hòa bình” không làm phương hại đến các quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Những ai quan niệm rằng quan hệ giữa các quốc gia ngày nay lấy hệ tư tưởng làm tiêu chí, làm điều kiện đều không còn phù hợp với thực tế. Trên thế giới ngày nay có nhiều hệ tư tưởng và chế độ xã hội khác nhau. Chẳng hạn, chế độ “Cộng hòa tổng thống”, “Cộng hòa đại nghị”, “Quân chủ nghị viện”, “Cộng hòa dân chủ nhân dân”, “Xã hội chủ nghĩa”, “Nhà nước tôn giáo” (Nhà nước Va-ti-căng)... Nhìn chung, tất cả các quốc gia với thể chế của mình (nói trên) đều có quan hệ quốc tế rộng rãi với các quốc gia khác. Kinh nghiệm lịch sử cũng như thực tế cho thấy: Sau sự kiện Liên Xô tan rã, chế độ xã hội XHCN ở Đông Âu sụp đổ, quan hệ giữa các quốc gia đều xuất phát từ lợi ích căn bản của mỗi quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định: Việt Nam mong muốn “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(4). Theo tinh thần đó, Việt Nam đang chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Ngày nay, chính sách ngoại giao Việt Nam không chỉ hạn chế trong quan hệ kinh tế mà còn mở rộng, hội nhập quốc tế một cách toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực, kể cả quốc phòng, an ninh với tất cả các quốc gia. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 180 quốc gia; trong đó có quan hệ với tất cả 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam là đối tác chiến lược với Trung Quốc, Nga, Anh, Pháp; là đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Ngoài các quốc gia thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam còn có quan hệ đối tác chiến lược với các quốc gia khác như: Ấn Độ (2007), Nhật Bản (2006); Hàn Quốc, Tây Ban Nha (2009), Đức (2011), I-ta-li-a, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po; đối tác toàn diện với Ô-xtrây-li-a (2009); Niu Di-lân (2010)...
Thứ ba, phòng, chống “diễn biến hòa bình” nhằm nâng cao khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Không quốc gia nào có thể áp đặt quan hệ hợp tác cho quốc gia khác. Hợp tác quốc tế là sự lựa chọn của hai bên. Sự lựa chọn đó là sự đánh giá về vai trò, vị thế và tiềm năng của quốc gia đối tác. Các quan hệ đối tác, hợp tác quốc tế ngày nay không chỉ dựa trên Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, mà còn dựa trên tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền của nhau. Sự khác biệt nào đó về chế độ chính trị, pháp luật giữa các quốc gia không phải là ranh giới không thể vượt qua trong quan hệ quốc tế ngày nay.
Cho đến nay, cộng đồng quốc tế đánh giá cao Việt Nam ở đường lối chính trị độc lập, tự chủ, yêu chuộng hòa bình, ở ý thức trách nhiệm cao với cộng đồng quốc tế và luôn ổn định về chính trị, xã hội. Sự kiện “nóng” ở Biển Đông vừa qua là một phép thử các quan hệ hợp tác của nước ta. Có thể nói các quốc gia “đối tác chiến lược”, “đối tác toàn diện” đều thể hiện cam kết bằng cách này hoặc cách khác ủng hộ Việt Nam trong việc giữ gìn chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, từ chính trị, ngoại giao đến kinh tế và quốc phòng. Chưa có một quốc gia nào đặt điều kiện về chính trị, tư tưởng với Việt Nam. Nhiều chính khách, chuyên gia cho rằng, Việt Nam hội nhập tương đối đầy đủ những tiêu chí để phát triển quan hệ hợp tác với các quốc gia khác. Bởi vậy, phòng, chống “diễn biến hòa bình” chính là để bảo vệ những giá trị đó, nhằm nâng cao khả năng bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trích nguồn: Báo Quân đội nhân dân online
Biên tập: Mai Loan, Trung tâm TTKH&TLGK