Loãng xương là một bệnh lí toàn thể của khung xương, đặc trưng bởi sự giảm khối lượng xương, tổn thương vi cấu trúc xương và tăng nguy cơ gãy xương. Loãng xương có thể gây ra một số biến chứng nặng như gãy xương đùi, xương hông, xương cánh tay, xẹp đốt sống... gây ra rất nhiều khó khăn và nguy cơ tử vong cho người bệnh. Trong những năm gần đây, tỉ lệ mắc loãng xương gia tăng ở mức đáng báo động trên toàn thế giới, cùng với đó, các hệ quả cũng như chi phí điều trị loãng xương là rất lớn.
|
Rễ cây ba kích tím.
|
Theo báo cáo của Hiệp hội loãng xương quốc tế (International Osteoporosis Foundation) năm 2017, loãng xương gây ra hơn 8,9 triệu ca gãy xương hàng năm trên toàn thế giới. Loãng xương làm ảnh hưởng đến cuộc sống của gần 200 triệu phụ nữ trên toàn thế giới. Theo thống kê, cứ 3 phụ nữ trên 50 tuổi sẽ có 1 người bị loãng xương, trong khi tỉ lệ này ở nam giới là 1/5. Ước tính đến năm 2050, số ca gãy xương hông ở phụ nữ và nam giới sẽ tăng tương ứng là 240% và 310% so với năm 1990.
Loãng xương thường được xem như là bệnh của phụ nữ sau mãn kinh, tuy nhiên ảnh hưởng của loãng xương đến chất lượng sống của nam giới lại nặng nề hơn trên phụ nữ. Trên thực tế có tới 20% nam giới toàn cầu có nguy cơ mắc bệnh này, có 20-25% ca gãy xương hông xảy ra trên nam giới và tỉ lệ tử vong trong 12 tháng đầu sau khi gãy xương hông ở nam giới lên tới 20% và cao hơn so với nữ giới. Đối với nam giới trên 50 tuổi, nguy cơ ảnh hưởng đến tuổi thọ gây ra do gãy xương hông lên tới 27%, cao hơn so với nguy cơ do ung thư tuyến tiền liệt (11,3%) [20].
Loãng xương được chia thành ba loại: loãng xương người già (loãng xương tiên phát), loãng xương sau mãn kinh, và loãng xương thứ cấp. Loãng xương người già xảy ra ở cả nam và nữ giới, thường trên 70 tuổi và liên quan đến rối loạn quá trình tạo và hủy xương. Loãng xương mãn kinh làm nặng hơn tình trạng loãng xương do tuổi ở phụ nữ do giảm đột ngột oestrogen khi mãn kinh, đặc điểm là có sự gia tăng quá trình hủy xương. Loãng xương thứ phát do một số bệnh hoặc thuốc làm trầm trọng hơn tình trạng bệnh.
Theo phác đồ của Bộ Y tế, dự phòng và điều trị loãng xương trước tiên là thay đổi chế độ ăn uống và chế độ sinh hoạt, trong trường hợp cần thiết có thể sử dụng các dụng cụ chỉnh hình. Các thuốc điều trị loãng xương tập trung chủ yếu vào việc bổ sung calci và vitamin D nếu chế độ ăn không đủ đáp ứng nhu cầu, các thuốc chống hủy xương làm giảm hoạt tính tế bào hủy xương, hoặc thuốc vừa có tác dụng tăng tạo xương vừa ức chế hủy xương.
Loãng xương được đánh giá là một trong những bệnh mạn tính tiêu tốn nhiều chi phí điều trị nhất, tương đương với bệnh đái tháo đường và cao hơn nhiều so với hai bệnh ung thư ở phụ nữ là ung thư vú và ung thư cổ tử cung cộng lại. Tại Mỹ, chi phí điều trị loãng xương và biến chứng gãy xương lên tới 22 tỉ USD trong năm 2008. Còn tại châu Âu, chỉ riêng điều trị gãy xương do loãng xương đã tốn đến 37 tỉ EUR năm 2010.
Ước tính tới năm 2050, thế giới có thể phải tốn tới 131,5 tỉ USD để chữa trị những trường hợp chấn thương liên quan đến loãng xương. Tại Việt Nam, điều trị loãng xương không biến chứng chiếm 50% thu nhập bình thường của người Việt Nam. Do đó việc theo đuổi quá trình điều trị lâu dài đối với nhiều đối tượng là cực kì khó khăn. Trong khi đó, các chuyên gia cho rằng phòng, chống loãng xương chính là liều thuốc tốt nhất.
Bình thường, sự cân bằng hoạt động của các tế bào tạo xương và các tế bào hủy xương giúp cho xương của chúng ta chắc khỏe. Trong loãng xương, sự suy giảm số lượng cũng như chức năng của các tế bào tạo xương, đồng thời tăng sinh các tế bào hủy xương làm cho xương ngày càng suy yếu. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã chiết tách và phân lập ra nhiều hoạt chất có hoạt tính sinh học mạnh từ rễ ba kích, trong đó phải kể đến một số loại anthraquinone, iridoid, các polysaccharide, oligosaccaride và một số acid hữu cơ.
Kết hợp nghiên cứu hóa học và nghiên cứu dược lý cho thấy rằng, những hoạt chất chính của ba kích gồm có:
Nhóm dẫn xuất thuộc nhóm anthraquinone
Wu và cộng sự đã phân lập được 8 anthraquinone từ rễ Ba kích bao gồm: Physcion (1); rubiadin-1-methyl ether (2); 2-hydroxy-1-methoxy- anthraquinone (3); 1,2-dihydroxy-3-methylanthraquinone (4); 1,3,8-trihydroxy-2-methoxy-anthraquinone (5); 2-hydroxymethyl-3-hydroxyanthraquinone (6); 2-methoxyanthraquinone (7) và scopoletin (8).
Các chất này đều có tác dụng ức chế tế bào hủy xương, anthraquinone 2,3 có tác dụng kích thích tăng sinh tế bào tạo xương, trong khi chất 4,5 có tác dụng kích thích hoạt động của tế bào tạo xương. Các kết quả tương tự cũng được khẳng định trong nghiên cứu của Li và cộng sự và nghiên cứu của Bao và cộng sự. Tuy nhiên vẫn còn một số bất đồng về việc dịch chiết ba kích có tác dụng như estrogen hay không.
Nhóm Polysaccharide
Trong rễ ba kích cũng có chứa một số loại polysaccharide như: các loại inulin-fructan mạch thẳng có liên kết β-(2->1) và các polysaccharide cấu tạo từ các tiểu đơn vị galacturonic acid, arabinose và galactose …, các polysaccharide này có khả năng kích thích sự biểu hiện các gen liên quan đến xương. Từ đó cũng có tác dụng chống loãng xương. Ngoài ra, các polysaccharide trong rễ ba kích còn có tác dụng chống oxy hóa, giảm mệt mỏi, chống trầm cảm và tăng cường hệ miễn dịch. Nhiều nghiên cứu cũng đã chứng minh được tác dụng chống mất xương của các polysaccharide chiết tách từ rễ Ba kích thông qua cơ chế làm giảm nồng độ alkaline phosphate – một enzyme chịu trách nhiệm trong quá trình thải trừ nhóm phosphate từ các phân tử, và interleulin 6 và TNF-α – các chất kích thích các tế bào hủy xương dẫn đến giảm mật độ xương.
Nhóm Iridoids
Asperuloside, monotropein, morindolide là các iridoid được tìm thấy trong ba kích. Trong đó, monotropein có tác dụng chống viêm, chống viêm ruột kết và giảm đau xương do loãng. Ngoài ra, monotrooein cũng đã được chứng minh là có tác dụng giảm đau do loãng xương, phòng ngừa mất xương do nhiễm khuẩn. Tác giả He và cộng sự nhận thấy, monotropein ngăn chặn quá trình giảm khối lượng xương, đồng thời tăng cường quá trình vi tạo xương thông qua tăng cường hình thành xương và ức chế sản sinh các cytoine viêm.
|
Dược sĩ Phan Kế Sơn với các thí nghiệm về cây ba kích.
|
Tương tự như thế, tác giả Zhang và cộng sự cũng chứng minh được monotropein chiết từ rễ ba kích có khả năng bảo vệ xương thông qua cơ chế làm tăng hàm lượng khoáng, mật độ khoáng trong xương và tỉ lệ thể tích của xương, đồng thời tăng cường vi cấu trúc xương. Bên cạnh đó, các tác giả cũng khẳng định monotropein ức chế sản sinh các cytokine viêm và tăng sinh tế bào tạo xương.
Như vậy, từ cây ba kích hoàn toàn có thể tách chiết các hoạt chất và tạo thành sản phẩm phòng chống loãng xương.
Từ cây ba kích tím, các hoạt chất được tách ra dưới dạng cao định chuẩn ba kích. Giống như các loại cao thuốc khác, cao định chuẩn ba kích cần đảm bảo các tiêu chuẩn nhất định. Các chế phẩm cao thuốc có nguồn gốc từ dược liệu theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) bao gồm một số dạng như sau: dược liệu, dịch chiết dược liệu, cao lỏng, cao khô, cao định chuẩn, ...
Để đảm bảo chất lượng thuốc có nguồn gốc từ dược liệu, các tổ chức như WHO, EMEA (Uỷ ban đánh giá thuốc châu Âu), và các cơ quan quản lý Y tế các nước đều có hướng dẫn về xây dựng các chỉ tiêu đánh giá.
Hướng dẫn EMEA/CVMP/815/00 về chỉ tiêu cao dược liệu
Uỷ ban đánh giá thuốc châu Âu EMEA 2006 đã đưa ra khuyến cáo trong kiểm soát chất lượng các sản phẩm chứa thảo dược lưu hành tại châu Âu. Theo hướng dẫn này các dạng cao dược liệu gồm cao khô hoặc cao lỏng, đơn thành phần đến đa thành phần. Các chuyên luận chung cho cao dược liệu được quy định trong Dược điển châu Âu phải đánh giá các chỉ tiêu sau đây đối với tất cả các dược liệu.
Từ cao định chuẩn ba kích, các hoạt chất sẽ được nano hóa bằng chất mang. Từ cao định chuẩn ba kích, các hoạt chất sẽ được nano hóa bằng chất mang. Theo chúng tôi được biết, các nghiên cứu về nano hóa các hoạt chất tách ra từ ba kích tím Quảng Ninh hiện nay chưa được thực hiện. Tuy nhiên, có một số công bố liên quan đến việc nano hóa một số hoạt chất tương tự từ các thực vật khác đã cho thấy tiềm năng của loại thực phẩm chức năng này. Chẳng hạn, anthraquinone được nano hóa hoặc micro hóa bằng các polime khối dưới tác dụng của chất hoạt động bề mặt là Pluronic, hình thành các hạt nano hoặc micro dạng mixen [34]. Bên cạnh đó, irridoid từ các thực vật họ Plantago có thể được nano hóa bằng các polysaccharide và cho hiệu quả sinh học cao.
Nguồn: Báo CAND